Đây là lần đầu tiên, anh tôi sẽ đặt chân trở lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn, sau gần 60 năm xa cách. Cũng có thể là lần cuối cùng...

Bức thư từ nơi xa

Đã nhiều năm nay, thường khoảng 4 - 5 năm, gia đình tôi lại về Việt Nam ăn Tết một lần, để được sống thực sự thời khắc đón xuân về. Nhưng năm ấy chúng tôi thay đổi lịch, vì mới nhận được thư của anh trai từ bên kia đại dương gửi qua.

Bức thư anh ấy viết, làm tôi sung sướng đến sững sờ. Đã gần 60 năm nay, anh tôi không bước chân về làng. Đây là bức thư tâm huyết của anh, được gửi từ nước Mỹ xa xôi:

Nevada ngày 15.10.2010

Hai em cùng các cháu xa nhớ.

Đã ba tháng trôi qua, kể từ ngày các em tới thăm anh chị, anh đã phải suy nghĩ rất nhiều. Lúc nào trong anh cũng vang lên tiếng gọi của quê hương:"trở về". Ông cha ta đã có câu "lá rụng về cội". Hôm nay, anh chị đã ra lớp người "xưa nay hiếm", nếu không về cội thì về đâu? Anh xa quê hương đã lâu lắm rồi, nhưng dù ở đâu, làm việc gì, trong lòng anh vẫn canh cánh một niềm thương nhớ.

"Nhớ dáng mẹ già tất tưởi,

Dáng cha già quắc thước thuở năm nao

Và mỗi chiều ra sông gánh nước,

Bụi tơ hồng em thả khỏi nước chao".

Anh đã viết như vậy không chỉ trong nhật ký, mà anh còn cất giữ cả trong con tim mình. Quê hương luôn hiện lên trong anh với những hình bóng đẹp nhất, mến thương nhất... Mặc dù đã bỏ làng ra đi từ khi mới 18 tuổi đầu, nhưng cho đến tận bây giờ, anh vẫn giữ nguyên được những cảm xúc ngọt ngào với cái Tết quê hương.

Nhớ nhất là ngày 30 Tết. Trời tuy lạnh, nhưng sáng và trong veo. Nhà mình nghèo, nên mãi tới sáng 30 mới đụng được thịt heo trong làng. Anh quẩy đôi nồi đình ra bến gánh nước. Con sông Nhuệ vào mùa này nước xanh ngăn ngắt. Lội xuống nước, không thấy lạnh, mà chỉ thấy mát vào tận gan ruột.

Khi anh đổ đầy được chum nước, thì cũng là lúc u đã chuẩn bị xong lá dong cùng gạo, đỗ trên một cái nong đặt trước hiên nhà. Bàn tay nâu bóng đồng đất làng quê của u, nâng niu những hạt gạo nếp trắng ngần và căng tròn đã được ngâm từ đêm hôm trước... Đêm 30, cả nhà ngồi bên nồi bánh chưng, vừa sưởi ấm, vừa nghe bà ngoại kể chuyện Kiều. Cả nhà quây quần như vậy cho đến thời khắc giao thừa...

Hai em cùng các cháu mến thương, anh mong lắm được sống lại trong khung cảnh đơn sơ mà đầm ấm của cái Tết năm xưa."Sông có khúc người có lúc", cái gì nên quên thì anh đã quên, cái gì cần nhớ thì anh đã nhớ. Đời anh nhiều khúc quanh co, trắc ẩn. Nhưng đến khúc này, anh có linh cảm rằng, sẽ êm đềm tươi mát khi được về với dòng Nhuệ giang quê mình. Anh đã quyết định, trung tuần tháng một, anh chị sẽ sang bên em và chúng ta sẽ bay về trước ngày cúng ông Táo...

Chúc hai em và các cháu mạnh khoẻ. Hẹn ngày gặp mặt.

A. Hoàng

Hai anh em ở hai chiến tuyến

{keywords}
Nồi bánh chưng trên bếp củi nồng đượm

Anh Hoàng là người anh cùng cha khác mẹ với tôi. Năm 1954, chống lại ý cha, anh quyết định di cư vào Nam, rồi đi lính cho quân đội Pháp. Từ đấy, anh không quay lại cái nôi - nơi cha mẹ đã sinh ra, và nuôi anh lớn lên bằng hạt lúa, củ khoai được vắt ra từ đồng đất làng Cầu quê tôi nữa. Cũng từ đấy trở đi, gia đình không biết gì về cuộc sống của anh nơi mù xa.

Năm 1971, tôi đi bộ đội. Sau khi tham chiến vài trận, bị thương, tôi được chuyển ra Bắc điều trị. Đơn vị tổ chức đi thẩm tra lý lịch để kết nạp tôi vào Đảng. Khoảng hai tháng sau, trung đội trưởng Vũ, người chịu trách nhiệm giúp đỡ tôi bảo: "Hỏng rồi, anh Hoàng của cậu, bây giờ là một trung tá pháo binh của quân lực Việt nam Cộng hòa". Tôi chỉ biết im lặng, nhưng bắt đầu có ý định lần tìm tin tức của anh.

Đến năm 1977, sau khi ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới, tôi vào Nam tìm anh Hoàng, thì được gia đình cho biết, anh được đưa đi cải tạo ở mãi ngoài Bắc. Tôi lại lần tìm địa chỉ, rồi đến được trại giam mãi trên Ấm Thượng (Phú Thọ) thăm anh. Lúc đầu, anh tỏ ra dè dặt, lãnh đạm. Nhưng sau vài lần thăm nuôi, thấy tình cảm của tôi và gia đình ngoài Bắc là chân thật, anh em hiểu nhau, dần dần anh cởi mở kể hết chuyện xưa.

Hoá ra vào năm 1972, đơn vị tôi và đơn vị anh đã giao chiến với nhau nhiều trận ở Quảng Trị. Ác liệt nhất là trận đánh chiếm thành cổ, cả hai bên đều bị tổn thất nặng. Nhưng may mắn, hai anh em không ai hề hấn gì.

Đến 1973 ở chiến trường Lào, nhóm trinh sát chúng tôi lập một đài quan sát, để theo dõi một đơn vị lính Thái Lan ở Sam-Thoong. Lúc đó, anh đang làm công việc huấn luyện pháo binh cho tàn quân phỉ Vàng Pao đóng gần đó. Cũng chính anh đã chỉ huy cho pháo bắn chặn đường rút của chúng tôi, khi đài quan sát bị lộ. Trận dập pháo ấy, tôi bị mảnh chém rách đùi, máu chảy bê bết.

Và đáng nhớ, nhưng cũng đáng buồn nhất là trận đánh năm 1974. Khi đơn vị tôi chiếm được đường 14, để cứu nguy cho bộ binh bên mình, anh đã ra lệnh cho pháo ở ĐắcTô nã đạn vào đội hình chúng tôi. Chỉ ít phút sau, pháo binh bên ta bắn trả ngay. Trận này, tôi bị một mảnh đạn pháo xuyên thấu qua ngực.

Trong trận ấy, chính anh Hoàng cũng bị một mảnh pháo của ta phạt cụt hai ngón tay. Trong từng ấy năm giao tranh, chẳng hiểu đất trời xui khiến làm sao, hai anh em tôi cứ luẩn quẩn sát nhau, nhưng chỉ bị cách chia bởi một trận tuyến.

Sau khi hết hạn cải tạo, anh Hoàng đưa cả gia đình sang Mỹ định cư. Anh thề sẽ không bao giờ trở về Việt Nam nữa. Từ đấy, hai anh em tôi đứt liên lạc. Mãi sau này anh gửi thư về, hai bên mới nối lại được tình cảm.

Trở về

Mấy năm trước, cả nhà tôi đã hai lần sang thăm gia đình anh, vui lắm, toàn chuyện trên trời dưới biển. Nhưng chuyện gì thì chuyện, hễ tôi gợi ý anh chị cho các cháu về quê ăn Tết là anh lắc đầu quầy quậy.

Mùa hè năm 2010, vợ chồng tôi lại sang thăm anh chị. Chuyện trò thế nào lại nhắc đến cái Tết ở quê, anh vẫn một mực: " không". Hôm ấy, gần tới ngày trở lại Đức, cả nhà rủ nhau đi bơi. Lúc này, vết đạn vào trước ngực ra sau lưng của tôi đã biến thành sẹo lồi, nó thâm lại trông rất rõ. Khi cọ lưng giúp tôi, chạm phải vết sẹo, ngậm ngùi một lúc, anh mới nói: "Gặp thời nào, mình phải ứng xử theo thế ấy thôi em ạ. Nếu như không bỏ vào Nam đận ấy, chắc anh cũng sẽ đi bộ đội như em".

Anh Hoàng từ từ đưa bàn tay cụt hai ngón lên trước mặt, rồi anh như nói với ai, ở đâu đó chứ không phải với tôi: "Vết thương thì đã lành, nhưng vết sẹo vẫn còn đây. Chẳng lẽ chỉ vì nhìn thấy sẹo, mà ta lại làm cho vết thương đớn đau trở lại?"

Và tháng 10 năm đó anh viết bức thư mà tôi đã kể, hẹn ngày trở về. Đây là lần đầu tiên, anh tôi đặt chân trở lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn, sau gần 60 năm xa cách. Cũng có thể là lần cuối cùng... Nhưng như anh bảo: "Được một lần cúi mình trước Tổ tiên - cha mẹ, tuy có muộn màng, nhưng anh tin các cụ sẽ độ lượng mỉm cười. Nếu được như vậy, một khi xác thân này phải đi vào trong cỏ, ta vẫn thanh thản mà ngậm cười"...

Nguyễn Công Tiến (từ Đức)

Bài cùng tác giả:

'Áo giáp chở che ngàn năm bền vững'

Đi xa quê, tôi lại  bồi hồi mỗi khi nghe trên đài tiếng nói Việt Nam vang vang giọng ca của Kiều Hưng: "Hà Tây! Cửa ngõ Thủ đô, áo giáp chở che ngàn năm bền vững".

Lời nhắn nhủ con cháu Lạc Hồng

Chỉ còn mái đình và những chiến công vang dội núi sông của  các bậc thánh nhân là ở lại, để nhắn nhủ con cháu Lạc Hồng, hãy đoàn kết một lòng để gữi gìn trọn vẹn núi sông bờ cõi Việt Nam.