VietNamNet trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn báo chí Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhân chuyến thăm cấp nhà nước của ông tới Nhật Bản.
Nhận lời mời của Nhà vua Nhật Bản Akihito, tôi và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sẽ thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản từ ngày 16-19/03/2014. Đây là lần đầu tiên tôi tiến hành chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản và là lần thứ hai một Chủ tịch nước Việt Nam đến thăm Nhật Bản cấp Nhà nước kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1973.
Chuyến thăm có ý nghĩa rất quan trọng. Tôi sẽ cùng các nhà Lãnh đạo Nhật Bản đánh giá sự phát triển của quan hệ đối tác chiến lược thời gian qua và thống nhất về những phương hướng lớn và các biện pháp cụ thể nhằm đưa quan hệ song phương lên tầm cao mới, phát triển toàn diện, thực chất và sâu sắc hơn nữa trên mọi lĩnh vực. Chúng tôi cũng mong muốn trong chuyến thăm lần này, hai bên sẽ đạt được những thỏa thuận cụ thể để tăng cường hợp tác trong một số lĩnh vực có nhiều tiềm năng như kinh tế, thương mại, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, nông nghiệp, y tế...
Cùng đi với tôi trong chuyến thăm Nhật Bản lần này còn có nhiều doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam. Tôi tin rằng các cuộc Đối thoại với các tổ chức doanh nghiệp Nhật Bản như Keidanren, Kankeiren và các Diễn đàn Doanh nghiệp tại Tokyo, Osaka sẽ là cơ hội tốt giúp doanh nghiệp hai nước hiểu thêm về tiềm năng, thế mạnh và nhu cầu của nhau và sẽ tìm được nhiều cơ hội hợp tác mới, tạo xung lực mới cho hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước.
Tôi tin tưởng rằng chuyến thăm sẽ thành công tốt đẹp, đóng góp vào sự phát triển phồn vinh của mỗi nước và cho hòa bình, ổn định, phát triển và phồn vinh của khu vực và thế giới.
Xin Ngài chia sẻ cảm nhận về mối quan hệ hiện nay giữa hai nước và triển vọng hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới? Làm sao để tăng cường hơn nữa quan hệ? Nhật Bản có thể đóng góp trong lĩnh vực nào để mối quan hệ thêm sâu, rộng? Được biết trong chuyến thăm, Ngài sẽ thảo luận với phía Nhật Bản về việc nâng cấp khuôn khổ quan hệ giữa hai nước. Xin Ngài cho biết kỳ vọng của Việt Nam trong hợp tác với Nhật Bản, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế? Ngài có hài lòng với sự phát triển gần đây của quan hệ kinh tế Việt Nam-Nhật Bản không? Việt Nam đang xem xét hợp tác với Nhật Bản trong những dự án mới nào?
Trong những năm qua, quan hệ giữa hai nước chúng ta đã phát triển rất mạnh mẽ và toàn diện. Năm 2009, hai nước đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á với sự nhất trí cao của Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân hai nước. Có thể nói quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đang ở trong giai đoạn phát triển tốt đẹp nhất kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa hai bên ngày càng thêm sâu sắc, và đây là tài sản chung rất quý giá của chúng ta.
Tôi rất vui mừng khi giờ đây Nhật Bản là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam, đứng đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài và là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam. Năm 2013 kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước đạt hơn 25 tỷ USD. Hai bên cũng đang triển khai hiệu quả nhiều dự án hợp tác quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tính đến hết năm 2013, Nhật Bản đứng đầu về tổng vốn FDI đăng ký, đạt hơn 34,5 tỷ USD. Tổng vốn cam kết tài trợ ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đạt 23 tỷ USD.
Trên cơ sở mối quan hệ hợp tác song phương phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, trong chuyến thăm Nhật Bản lần này, tôi sẽ trao đổi với các nhà Lãnh đạo Nhật Bản về việc nâng cấp khuôn khổ quan hệ hai nước lên tầm cao mới. Việc này phù hợp với quan hệ tốt đẹp hiện nay giữa hai nước và đóng góp cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đồng thời, Việt Nam mong muốn phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Nhật Bản, đi vào chiều sâu và hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực, trọng tâm là kinh tế, thương mại, đầu tư với những nội dung như sau:
Một là, hợp tác triển khai Chiến lược Công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030, tập trung vào 06 ngành mà hai bên đã lựa chọn, bao gồm: chế tạo máy nông nghiệp; chế biến thực phẩm - nông - thủy sản; điện/điện tử; đóng tàu; môi trường và tiết kiệm năng lượng; công nghiệp ô tô và phụ tùng ô tô.
Hai là, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư. Việt Nam mong muốn Nhật Bản hợp tác chặt chẽ để đạt mục tiêu tăng ít nhất gấp đôi kim ngạch thương mại đến năm 2020 như đã nêu trong Tuyên bố chung năm 2011, triển khai hiệu quả Hiệp định Đối tác kinh tế song phương (VJEPA). Việt Nam đánh giá cao vai trò của khu vực tư nhân Nhật Bản trong hợp tác kinh tế, mong muốn các công ty Nhật Bản sẽ đẩy mạnh đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Chúng tôi kỳ vọng ngày càng có nhiều doanh nghiệp Nhật Bản tham gia đầu tư trong các dự án hợp tác công-tư (PPP) tại Việt Nam.
Ba là, mong muốn Nhật Bản duy trì và tăng cường hợp tác ODA, hỗ trợ Việt Nam triển khai hiệu quả các dự án quy mô lớn, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, năng lượng, công nghiệp phụ trợ, giúp chúng tôi tái cơ cấu nền kinh tế và tăng trưởng bền vững.
Bốn là, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là trong nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới, hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển nguồn nhân lực nhằm phát triển bền vững.
Năm là, trên bình diện đa phương, chúng tôi mong muốn hai bên sẽ hợp tác chặt chẽ cùng thúc đẩy tiến trình liên kết kinh tế khu vực, trong đó có đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân được tăng cường mạnh mẽ, nhất là trong dịp chúng ta kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao, thực sự trở thành cầu nối hữu nghị gắn kết hai dân tộc, tạo cơ hội cho nhân dân Việt Nam và Nhật Bản, đặc biệt là thế hệ trẻ, giao lưu, tìm hiểu văn hóa, lịch sử, truyền thống của nhau.
Nhân dân Việt Nam rất ngưỡng mộ tính cách kiên cường và tinh thần quả cảm của người dân Nhật Bản, thể hiện qua những gì mà người dân và đất nước các bạn đã làm trong suốt những năm qua để vượt qua những khó khăn mất mát do thiên tai gây ra, xây dựng và phát triển một đất nước Nhật Bản giàu mạnh. Văn hóa và nghệ thuật ẩm thực tinh tế của Nhật Bản cũng rất gần gũi với người Việt Nam.
Nhân dịp này, thay mặt nhân dân Việt Nam, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất tới nhân dân và đất nước Nhật Bản. Chúc cho mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển. Chúc tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước ngày càng bền chặt.
Xin Ngài cho biết vị trí của Nhật Bản trong chiến lược ngoại giao của Việt Nam?
Việt Nam hết sức coi trọng và luôn mong muốn đưa quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản tiếp tục phát triển sâu sắc, thực chất và toàn diện, coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình.
Kể từ khi hai bên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược (năm 2009) đến nay, quan hệ Đối tác chiến lược vì Hòa bình và Phồn vinh ở châu Á giữa Việt Nam-Nhật Bản đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hai nước vừa cùng nhau tổ chức Năm Hữu nghị Việt Nam-Nhật Bản kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao hết sức thành công, để lại ấn tượng sâu sắc trong nhân dân hai nước về mối quan hệ ngày càng bền chặt giữa hai nước chúng ta.
Việt Nam và Nhật Bản đã thực sự là đối tác quan trọng của nhau trên mọi lĩnh vực. Hai nước thường xuyên duy trì trao đổi đoàn cấp cao, tăng cường và củng cố sự tin cậy về chính trị. Hai nước cũng hợp tác tích cực trên các diễn đàn đa phương trong khu vực và trên thế giới, nhất là trong khuôn khổ Tiểu vùng Mê Công, ASEAN, APEC, Liên Hợp Quốc… Việt Nam cũng đã sớm bày tỏ ủng hộ Nhật Bản tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và sẵn sàng hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản trong quá trình đàm phán.
Tôi cho rằng sự tin cậy về chính trị, sự tương đồng và gắn kết về văn hóa giữa hai dân tộc cũng như những thành quả đầy ấn tượng của hợp tác giữa hai nước trong 40 năm qua là nền tảng vững chắc và động lực mạnh mẽ để đưa quan hệ song phương tiếp tục phát triển lên tầm cao mới, hướng tới tương lai tốt đẹp hơn, đáp ứng nguyện vọng và mong muốn của nhân dân Việt Nam và Nhật Bản, đồng thời đóng góp tích cực cho hòa bình, phồn vinh, hợp tác và phát triển của khu vực.
Vấn đề biển đảo
Gần đây, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản đã đến thăm cảng Cam Ranh và phía Nhật Bản mong muốn trong thời gian tới tàu quân sự Nhật có thể sử dụng cảng Cam Ranh. Xin Ngài cho biết Nhật Bản có thể sử dụng những dịch vụ gì tại Cam Ranh?
Việt Nam không hợp tác với nước ngoài sử dụng cảng Cam Ranh vào mục đích quân sự. Việt Nam sẽ khai thác tiềm năng của cảng Cam Ranh phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ đầu tư xây dựng Trung tâm dịch vụ hậu cần, kỹ thuật tàu biển bằng vốn của mình và sẽ quản lý khai thác các dịch vụ hậu cần, kỹ thuật cho các tàu của Việt Nam và của các nước khác nếu có nhu cầu, phù hợp với các quy định liên quan của luật pháp Việt Nam và quốc tế.
Trung Quốc gần đây đã thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) tại khu vực Biển Hoa Đông. Xin cho biết ý kiến của Ngài về việc này? Xin Ngài cho biết Nhật Bản và Trung Quốc phải làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Xin Ngài Chủ tịch nước cho biết chìa khóa để giải quyết các vấn đề của Biển Đông là gì và Ngài có nhận xét gì về Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) của Trung Quốc ở các khu vực có tranh chấp chủ quyền. Việt Nam có dự định hợp tác chiến lược với Nhật Bản để giải quyết các vấn đề trên Biển Đông không?
Hoà bình, ổn định luôn là lợi ích, nguyện vọng và mục tiêu phấn đấu chung của các nước trong và ngoài khu vực để duy trì sự phát triển bền vững và thịnh vượng của châu Á - Thái Bình Dương. Chúng tôi theo dõi với sự quan tâm sâu sắc các diễn biến tại khu vực biển Hoa Đông cũng như quan ngại của các bên liên quan. Việt Nam luôn mong muốn các nước thông qua đối thoại hoà bình, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế xử lý thoả đáng những bất đồng còn tồn tại do các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, đóng góp vào hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới. Chúng tôi sẵn sàng cùng các thành viên khác trong ASEAN và các đối tác khác trong và ngoài khu vực đóng góp vào các nỗ lực chung nhằm duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực.
Vì mục đích đảm bảo an toàn và tự do hàng hải, Việt Nam đã đề nghị phía Nhật Bản hỗ trợ cung cấp tàu tuần tra. Ngài có hy vọng Nhật Bản sẽ sớm bàn giao tàu cho Việt Nam và Ngài có nhắc lại đề xuất này trong chuyến thăm sắp tới? Việt Nam và Nhật còn có thể hợp tác gì hơn trong lĩnh vực an toàn và tự do hàng hải?
Việt Nam luôn sẵn sàng hợp tác cũng các nước trong các khuôn khổ song phương và đa phương vì mục tiêu chung là bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải, góp phần vào hòa bình, ổn định trong khu vực. Tăng cường năng lực cho lực lượng chấp pháp dân sự trên biển của Việt Nam cũng là một lĩnh vực mà Việt Nam và Nhật Bản có thể hợp tác và chúng tôi sẽ tiếp tục cùng với phía Nhật Bản trao đổi, xem xét về những hình thức hợp tác cụ thể.
Đàm phán Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)
Theo Ngài, đàm phán TPP khi nào sẽ hoàn thành?
Hiệp định được ký kết sẽ mang lại những kết quả tích cực gì? Việt Nam và Nhật Bản có thể cùng hợp tác trong quá trình thảo luận hay không?
Hiện nay, các thành viên đang nỗ lực kết thúc đàm phán hiệp định TPP trong thời gian sớm nhất có thể được. Theo hướng đó, các Bộ trưởng TPP đã gặp nhau trong hai phiên liên tiếp gần đây (tháng 12 năm 2013 và tháng 02 năm 2014) để giải quyết những vấn đề còn lại trong đàm phán. Tôi đã nhận được báo cáo cho biết, Hội nghị Bộ trưởng TPP vào tháng 02 vừa qua tại Xinh-ga-po đạt được tiến bộ tích cực. Các Bộ trưởng TPP đã giải quyết được một số vấn đề quan trọng và đạt được sự nhất trí về “ngưỡng kết thúc” đối với phần lớn nội dung đàm phán được đưa ra tại phiên họp. Mặc dù vẫn còn một số vấn đề khó mà các thành viên cần tiếp tục nỗ lực giải quyết, nhưng các Bộ trưởng đã xác định rõ cách thức xử lý theo hướng đạt được kết quả toàn diện và cân bằng. Do đó, tôi tin tưởng rằng với quyết tâm chính trị cao và cách tiếp cận hợp lý, các nước TPP hoàn toàn có thể kết thúc đàm phán trong thời gian tới.
Việc kết thúc đàm phán Hiệp định TPP là mục tiêu chung của các thành viên, góp phần quan trọng vào việc duy trì vai trò năng động của châu Á - Thái Bình Dương là đầu tàu của phục hồi và tăng trưởng kinh tế thế giới. Với khả năng đóng góp khoảng 30% tỷ trọng GDP và 40% trao đổi thương mại toàn cầu, Hiệp định TPP chắc chắn sẽ tạo ra khuôn khổ mới, làm sâu sắc quan hệ giữa các thành viên TPP. Đồng thời, Hiệp định TPP hứa hẹn sẽ góp phần tích cực mở rộng tiềm năng hợp tác và mang lại những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp TPP, qua đó tạo thêm công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tại tất cả các nước tham gia Hiệp định này.
Việt Nam và Nhật Bản đều đang tích cực tham gia đàm phán Hiệp định TPP. Tôi đánh giá cao sự phối hợp của hai nước trong đàm phán thời gian qua. Tôi mong rằng hai nước tiếp tục và tăng cường hơn nữa sự phối hợp này, tích cực ủng hộ nhau trong những lĩnh vực có cùng lợi ích, hướng tới mục tiêu sớm kết thúc đàm phán vì lợi ích của hai nước và khu vực.
Xin Ngài cho biết mục đích tham gia đàm phán TPP của Việt Nam? Việt Nam có ưu thế trong sản xuất nông nghiệp, nhưng ngành công nghiệp lại không mạnh bằng các nước TPP khác. Việt Nam có chiến lược nào để bảo vệ ngành công nghiệp của mình? Ngài đánh giá thế nào về sự tham gia của Nhật Bản? Việt Nam có kế hoạch hợp tác với Nhật Bản trong đàm phán TPP không?
Với cam kết mạnh mẽ về hội nhập quốc tế, Việt Nam chia sẻ các mục tiêu chính của Hiệp định TPP và tin tưởng sâu sắc rằng Việt Nam có thể đóng góp tích cực cho tiến trình này.
Tham gia tiến trình đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam không chỉ thể hiện quyết tâm tiếp tục đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, mà còn xuất phát từ nguyện vọng của Việt Nam muốn cùng các nước thúc đẩy liên kết kinh tế đa tầng nấc và xây dựng một khuôn khổ đối tác kinh tế dài hạn vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn cầu.
Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp hơn rất nhiều so với các thành viên khác trong TPP. Do đó, đối mặt với sức cạnh tranh của hàng hóa từ các nước TPP là điều tất yếu khi Việt Nam tham gia TPP. Tuy nhiên, Việt Nam đã bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cách đây gần 20 năm và các ngành công nghiệp trong nước đã và đang nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh của mình. Việt Nam tin rằng, nếu đạt được một thỏa thuận cân bằng về lợi ích trong TPP, cùng với việc thực hiện chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế đối với các ngành công nghiệp, Việt Nam sẽ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam hoan nghênh việc Nhât Bản tham gia đàm phán Hiệp định TPP. Là một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới, việc Nhật Bản tham gia
Hiệp định TPP sẽ góp phần gia tăng tiềm năng hợp tác, tính đa dạng và hấp dẫn của liên kết kinh tế này. Việt Nam đã bày tỏ sự ủng hộ tích cực ngay từ khi
Nhật Bản bắt đầu các thủ tục đầu tiên để tham gia đàm phán TPP. Việt Nam mong muốn hai nước sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để đem lại một kết quả cân bằng, đáp ứng lợi ích của các bên.
Xin Ngài cho biết đâu là thách thức của Việt Nam trong quá trình đàm phán TPP? Có ý kiến cho rằng những giải pháp đặc biệt là cần thiết, chẳng hạn như thời gian chuẩn bị phải được kéo dài hơn để các nước đang phát triển như Việt Nam có thể thực hiện một số điều kiện của Hiệp định. Ngài có nhận xét gì về ý kiến này? Việt Nam có cần được miễn trừ hoặc tạm ngưng để làm quen với những quy định hạn chế của TPP? Ngài kỳ vọng điều gì nhất khi Việt Nam tham gia TPP và đâu là những khó khăn hiện nay của Việt Nam khi tham gia vào TPP? Làm thế nào để cả 12 nước đạt được thỏa thuận trong quá trình đàm phán TPP?
Khi quyết định tham gia đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam đã lường trước những thách thức sẽ phải đối mặt trong tương lai và sẵn sàng có những điều chỉnh phù hợp trên cơ sở hài hòa giữa cơ hội và thách thức. Tham gia TPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Để thực thi cam kết trong TPP, Việt Nam sẽ phải điều chỉnh, sửa đổi và xây dựng mới nhiều quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ… Tuy nhiên, đây là con đường mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi qua để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.
Là nước đang phát triển ở trình độ thấp hơn nhiều so với các thành viên TPP khác, việc Việt Nam có thể tham gia và tham gia thành công vào Hiệp định TPP sẽ góp phần làm tăng sự đa dạng của khuôn khổ này, cho thấy TPP không những là cơ chế hợp tác ở trình độ cao mà còn là khuôn khổ có khả năng hài hòa quyền lợi giữa các nền kinh tế có trình độ phát triển không đồng đều.
Vì vậy, bên cạnh việc hướng đến các tiêu chuẩn cao, Việt Nam cho rằng TPP cần hướng đến sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của từng nước
tham gia đàm phán. Việt Nam mong muốn các nước dành cho Việt Nam sự linh hoạt trong những lĩnh vực quan trọng đối với Việt Nam, như xuất khẩu dệt may và giày dép, hoặc dành cho Việt Nam thời gian chuyển đổi thích hợp, hỗ trợ kỹ thuật trong đàm phán hoặc trong quá trình thực thi để từng bước nâng cao năng lực, đáp ứng được tiêu chuẩn cao của TPP. Điều này cũng phù hợp với nguyên tắc “vì sự phát triển” mà các thành viên TPP đang thúc đẩy.
Với cam kết mạnh mẽ về hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam chia sẻ các mục tiêu chính của Hiệp định TPP và tin tưởng sâu sắc rằng Việt Nam có thể đóng góp tích cực cho tiến trình này. Tham gia tiến trình đàm phán Hiệp định TPP, Việt Nam không chỉ thể hiện quyết tâm tiếp tục đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực sâu rộng và toàn diện, mà còn xuất phát từ nguyện vọng của Việt Nam muốn góp phần tăng cường liên kết kinh tế vì hoà bình, hợp tác và phát triển. Việt Nam mong muốn tham gia cùng các nước xây dựng một khuôn khổ đối tác kinh tế dài hạn, góp phần vào quá trình hội nhập kinh tế tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn cầu.
Hiệp định TPP là một hiệp định đa dạng với nhiều thành viên đến từ các nền kinh tế có trình độ phát triển kinh tế và thể chế chính trị khác nhau. TPP cũng được xem là một “hiệp định của thế kỷ 21” với cam kết sâu rộng và mức độ tự do hóa rất cao. Vì vậy, để 12 nước có thể đạt được thỏa thuận, Việt Nam cho rằng TPP phải bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, đồng thời tôn trọng những khác biệt và đặc thù của mỗi nước.
Nhật Bản đã có sự hỗ trợ cũng như hợp tác với Việt Nam trong công cuộc cải cách tư pháp, Ngài Chủ tịch nước đánh giá như thế nào về điều này?
Trong nhiều năm qua, Nhật Bản đã hỗ trợ, hợp tác với Việt Nam trong cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp thông qua nhiều hình thức như hỗ trợ kỹ thuật, hợp tác phát triển nguồn nhân lực, trao đổi kinh nghiệm... Nhật Bản cũng tích cực hỗ trợ Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, sửa đổi Hiến pháp của Việt Nam vừa được thông qua cuối năm 2013.
Trong bối cảnh quan hệ giữa hai nước ngày càng phát triển, nhu cầu và tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực này là rất lớn. Việt Nam mong muốn mở rộng phạm vi, quy mô hợp tác với Nhật Bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng như đào tạo nguồn nhân lực cho ngành tư pháp Việt Nam. Hai bên cũng cần tiến hành trao đổi, thảo luận để đi đến đàm phán ký kết các Hiệp định, Thỏa thuận liên quan phù hợp với sự phát triển của quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư và dân sự giữa hai nước.
PV