Nghề đánh bắt thủy hải sản mang giá trị kinh tế cao, góp phần thể hiện chủ quyền của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay, trang thiết bị, kết cấu hầm bảo quản trên tàu cá vẫn còn khá lạc hậu, chủ yếu là mang theo đá (dạng cây) và ướp cá bằng công thức giản đơn 1 lớp cá - 1 lớp đá hoặc áp dụng một số cách bảo quản không phù hợp khiến cho lượng tổn thất sau đánh bắt ở mức cao (trên 20%).

Nhằm hỗ trợ ngư dân Đà Nẵng khắc phục các nhược điểm trong khâu bảo quản sau đánh bắt, Trung tâm Tiết kiệm năng lượng và Tư vấn chuyển giao công nghệ thuộc Sở KH&CN Đà Nẵng và nhóm kỹ sư trường Cao đẳng Công nghệ đã phối hợp thực hiện đề tài “Nghiên cứu, lắp đặt hệ thống lạnh cho tàu đánh cá xa bờ”.

Anh Hồ Quốc Sơn, một thành viên trong nhóm, chia sẻ:“Để thiết kế một hệ thống bảo quản lạnh, bên cạnh cấu tạo hầm phải đảm bảo cách nhiệt, giảm tổn thất lạnh ra môi trường thì còn một yếu tố quan trọng nữa, đó là vật liệu phải có khả năng chống ăn mòn, chịu được môi trường biển (tính oxy hóa cao hơn thông thường). Do đó, vật liệu sử dụng để làm hầm mới là bằng Inox 304 dày 2mm, có khả năng chống chịu với oxy hóa đồng thời kết hợp với việc phun lớp foam cách nhiệt bằng vật liệu bột xốp lên xung quanh bề mặt hầm Inox, tạo thành nhiều lớp vách cách nhiệt hơn đảm bảo giảm thiểu thất thoát nhiệt ra ngoài, giảm nước đá bị tan chảy và chất lượng sản phẩm sau thu hoạch an toàn, nguyên vẹn”.

Do điều kiện không gian máy tàu chật hẹp, việc bố trí thiết bị bay hơi cho hầm lạnh gặp nhiều trở ngại, vì vậy thiết bị của hệ thống làm lạnh được lắp đặt theo cấu tạo gồm 3 modul; mỗi modul gồm 22 ống đồng đường kính 12mm, bước ống 80mm, kích thước một modul: 1,22 x 2,4 m.Với phương án này, việc bố trí thiết bị trở nên gọn, nhẹ không chiếm nhiều diện tích, giảm chiều dài đường ống… tiết kiệm chi phí, đồng thời vẫn đảm hệ thống lạnh hoạt động hiệu quả và ổn định lâu dài trên biển.

Bên cạnh đó, để duy trì hoạt động liên tục của máy, hệ thống này được trang bị máy nén lạnh kiểu hở và khai thác truyền động từ trục chính của động cơ máy tàu để vận hành máy nén lạnh.

Hệ thống làm lạnh cho tàu đánh cá xa bờ đã được lắp đặt và vận hành thử nhiệm trên 1 trong 5 hầm chứa thủy hải sản thuộc tàu cá DNA 90621 TS của ông Đồng Văn Đền (phường An Hải Bắc - quận Sơn Trà) từ cuối năm 2014.

“Nói chung so với cách bảo quản truyền thống của ngư dân mình, cách mới tốt hơn. Lượng cá tươi nhiều hơn, số cá hư hao ít hơn, giảm bớt lượng đá cây mang theo, dầu chạy tàu cũng bớt lại (do ít vận chuyển đá). Ước tính sơ bộ, nếu tàu của tôi áp dụng hết cho cả 5 hầm bằng cách bảo quản mới này ra khơi, thì mỗi chuyến tăng thêm lãi ròng chừng 10 đến 20 triệu đồng”, ông Đồng Văn Đền hào hứng cho biết.

Anh Phan Quý Trà, Trưởng phòng Quản lý khoa học - Hợp tác quốc tế trường Cao đẳng, Chủ nhiệm đề tài nhận định: Trên thế giới, hiện có rất nhiều phương pháp bảo quản sau đánh bắt như công nghệ làm lạnh nước biển, công nghệ sử dụng đá khô CO2 hay bơm dung dịch băng lạnh… Những công nghệ này được xếp vào diện tối ưu, nguyên liệu thủy hải sản luôn được bảo quản tốt nhất và giá trị đánh bắt được không hề suy giảm.

Tuy nhiên, các công nghệ này có chi phí đầu tư, bảo trì, đảm bảo an toàn quá cao, chỉ phù hợp cho quy mô khai thác đánh bắt công nghiệp, tàu đánh cá công suất lớn, có kích thước hầm chứa rộng và chắc chắn trong khi các tàu cá truyền thống của ngư dân ta đều phổ biến là loại có công suất vừa và nhỏ.

Trong khi đó, giá thành thiết bị của hệ thống làm lạnh trên tàu cá do nhóm thí nghiệm chỉ khoảng 400 triệu đồng so với giá thành của các hệ thống làm lạnh trên thế giới thì thấp hơn nhiều. Đặc biệt, phần lớn thiết bị đều sản xuất tại Việt Nam nên chủ động hơn trong việc sản xuất và cung ứng. Theo tính toán của nhóm, nếu có thể áp dụng đại trà, thiết bị được sản xuất hàng loạt thì chi phí cho hệ thống làm lạnh này sẽ giảm gần 50%. Khả năng thu hồi vốn nhanh, chỉ khoảng 1 năm.

Như vậy, công nghệ lạnh bổ sung của nhóm nghiên cứu là hoàn toàn phù hợp khi cần trang bị, nâng cấp hầm bảo quản đối với các tàu đánh cá quy mô vừa (công suất > 400CV, chiếm phần lớn số tàu cá ở Việt Nam hiện nay).

Về việc nhân rộng mô hình, anh Trà bộc bạch:  “Ngư dân mình vẫn còn tập quán làm ăn nhỏ lẻ, thường thiếu vốn nên chưa mạnh dạn áp dụng cái mới. Do đó, chúng tôi sẽ tuyên truyền rộng rãi đến ngư dân, trước mắt là các tàu lưới vây, các nhà máy chế biến thủy sản cũng như đến các cơ quan, đơn vị quản lý Nhà nước có liên quan. Nếu được Nhà nước hỗ trợ, ngư dân sẽ mạnh dạn đầu tư hơn. Một người làm được, sinh lời thì nhiều người khác sẽ học theo. Qua đó, góp phần nâng cao nhận thức về công nghệ bảo quản sau thu hoạch, cũng như tiết kiệm các chi phí khi sử dụng công nghệ này”.

“Hiện có ông Trần Văn Mười (trú ở Tổ DP 22B1 phường Mân Thái), người vừa được UBND TP Đà Nẵng phê duyệt hỗ trợ đóng tàu sắt theo Nghị định 67, đã lên tiếng ủng hộ”, anh Trà hào hứng chia sẻ về triển vọng dự án.

“Trước đây, ông Mười cũng tìm đối tác để lắp đặt hệ thống hầm lạnh cho tàu sắt mới. Nhưng chưa tìm thấy công nghệ phù hợp, cũng như chi phí quá lớn. Sau khi tham khảo hệ thống làm lạnh trên tàu ông Đền, ông Mười đã nhờ nhóm nghiên cứu tham gia khảo sát bản vẽ của nhà máy đóng tàu X20- Sông Thu (đơn vị đóng tàu sắt cho ông), để hỗ trợ thiết kế và lắp đặt cho tàu sắt của ông một hệ thống hầm lạnh như đề tài đã thực nghiệm tại hầm tàu ông Đền”, anh Trà vui vẻ cho biết.