Hướng đi đúng đắn và phù hợp nhất của ngành dược Việt Nam chính là dựa vào nguồn
cây thuốc dược liệu trong nước để phát triển, TS. Trương Quốc Cường - Cục Trưởng
Cục Quản lý Dược cho biết
Truyền thống sử dụng cây thuốc Nam
Từ trước đến nay chúng ta chưa thực sự quan tâm đúng mức đến nền y học tự cường,
mang bản sắc rất riêng của dân tộc ta. Đó chính là nền y học bản địa gắn với sử
dụng cây thuốc Nam.
![]() |
Nền y học dân tộc của chúng ta vẫn giữ được những đặc sắc rất riêng, rất bản
địa, đó chính là cách thức phát hiện ra các vị thuốc, bài thuốc dựa vào kinh
nghiệm sống.
Điển hình của trường phái Thuốc Nam là Đại danh y Tuệ Tĩnh. Ông sống vào cuối
thời Trần với khẩu hiệu nổi tiếng: "Nam dược trị nam nhân” (Thuốc Nam Việt trị
người nam Việt).
Ông nổi tiếng là thần y không chỉ vì tài chữa bệnh mà còn ở khả năng tìm tòi,
phát hiện nhiều vị thuốc Nam quý. Trong cuốn "Hồng nghĩa giác thư y”, Ông biên
soạn khoảng 500 vị thuốc Nam.
“Nam dược trị nam nhân”
Việt Nam có sự đa dạng về chủng loại cây dược liệu, vùng phân bố rộng khắp cả
nước, có nhiều loài dược liệu được xếp vào loài quý và hiếm trên thế giới.
Một ví dụ điển hình về dược liệu quý hiếm, đó là Sâm ngọc linh. Theo kết quả
nghiên cứu từ năm 1978 của Bộ Y tế, phần thân rễ của cây sâm Ngọc Linh Việt Nam
chứa 26 hợp chất saponin có cấu trúc hóa học đã biết và 24 saponin có cấu trúc
mới không có trong các loại sâm khác, trong khi sâm Triều Tiên chỉ có khoảng 25
saponin.
Những kết quả nghiên cứu, phân lập thành phần hóa học mới nhất được công bố còn
kéo dài danh sách saponin của sâm Ngọc Linh hơn nữa, lên tổng cộng 52 loại. Như
vậy, sâm Việt Nam là một trong những loại sâm có hàm lượng saponin nhiều nhất,
tương tự một số cây sâm quý đã từng được nghiên cứu sử dụng từ lâu trên thế
giới.
Để công nghiệp dược Việt hội nhập thế giới
Với những tiềm năng, thế mạnh nói trên, có thể thấy, hướng đi đúng đắn và phù
hợp nhất của ngành dược nước ta đó chính là dựa vào lợi thế sẵn có là nguồn cây
thuốc dược liệu trong nước để phát triển. Đây sẽ là con đường nhanh chóng và
thuận lợi nhất đưa Ngành dược Việt Nam đón đầu được trong hội nhập quốc tế, TS.
Cường nhấn mạnh.
Lý do thứ nhất là vì thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm dược liệu là
rất lớn do thói quen và truyền thống phòng và chữa bệnh bằng Y học cổ truyền
(YHCT) của nhân dân, việc sử dụng các thuốc từ dược liệu của người dân ngày càng
tăng vì ít có những tác động có hại và phù hợp với quy luật sinh lý của cơ thể
hơn.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), khoảng 80% dân số tại các quốc gia đang phát
triển, việc chăm sóc sức khoẻ ít nhiều có liên quan đến YHCT hoặc thuốc từ dược
thảo truyền thống để bảo vệ sức khoẻ.
Thứ hai: Hiện trên thế giới đang có xu hướng định hình lại phương pháp nghiên
cứu tìm ra các thuốc mới. Thay vì chỉ chú trọng đến việc tổng hợp hóa học trong
phòng thí nghiệm với nhiều khó khăn và nhiều độc tính, các nhà khoa học dược,
các tập đoàn dược phẩm lớn hiện đang chú trọng vào sàng lọc từ thiên nhiên để
tìm ra các hoạt chất sinh học mới có dược tính mạnh hơn, ít độc hơn.
Thứ ba, do không dùng lý luận phức tạp nên thuốc Nam dễ dàng được chứng minh tác
dụng trên cơ sở khoa học hiện đại. Điều này hoàn toàn phù hợp quan điểm của các
nước phát triển trong việc phát triển thuốc mới.
Thứ tư, việc sử dụng nguồn nguyên liệu từ cây dược liệu để chiết xuất các hoạt
chất mới giúp đem lại khả năng bào chế ra những thuốc mới với chi phí nghiên cứu
phát triển kinh tế hơn nhiều so với việc nghiên cứu bào chế thành công một thuốc
hóa dược mới.
Thứ năm là việc phát triển các loại thuốc mới đi từ thiên nhiên sẽ giúp đem lại
tiềm năng kinh tế lớn. Hiện nay trên thế giới, những hoạt chất như Taxon chữa
ung thư từ Thông đỏ; Tamiflu chữa cúm từ Hồi; Vinblastin, Vincristin chữa ung
thư từ Dừa cạn; EgB761 từ Bạch quả; Sylimarin từ Cúc gai… đã và đang đem lại
doanh thu hàng chục tỷ đô la mỗi năm.
Tất cả những điều này giúp mở ra một thị trường rất rộng lớn cho sự phát triển
của thuốc Nam, đồng thời những đặc sắc về nguồn gen và tri thức bản địa chính là
những lợi thế quan trọng giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận thị trường.
Minh Tuấn