![]() |
Sau ngày tiếp quản, tại sân bay Tân Sơn Nhất, từ trái sang: Thượng úy Đặng Minh Ngạc, anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung, đại úy Nguyễn Lãm |
Bài 3: Vận hành và khai thác máy tính IBM
Tiếp quản Trung tâm Điện toán, Bộ Quốc phòng
GS. TS. Nguyễn Lãm kể lại: Có một số công việc diễn ra khá thuận lợi như cùng với một số chuyên gia kỹ thuật của trung tâm (TT) cũ còn ở lại, cán bộ TT Toán - MT vào tiếp quản đã khôi phục cho máy IBM360/50 làm việc và chúng tôi khẩn trương liên hệ với các bộ, ngành, cơ quan nhà nước khai thác máy.
Anh Trần Duy Thoả, cán bộ của TT Toán - MT Quân đội, một trong số những người vào tiếp quản máy tính đầu tiên báo cáo: Chiều ngày 2/5/1975, quân ta phát hiện dàn máy IBM360/20 của TT Điện toán Bộ Quốc phòng quân đội Sài Gòn ở 63 đường Gia Long. Ngày 5/5/1975 anh Thoả được giao nhiệm vụ tiếp quản, chốt giữ. TT này thuộc Tổng nha Tài chính và Thanh tra Quân khí của quân đội Sài Gòn nên sau đó, ngày 9/5/1975, đồng chí Lê Quang Sa, trung tá - Trưởng đoàn tiếp quản của Cục Tài vụ, Bộ Quốc phòng cũng cử cán bộ tới tiếp quản. Hai bên thống nhất giao anh Thoả phụ trách.
TT này đã hoạt động từ tháng 7/1973 để điện toán hoá lương bổng và phụ cấp quân đội chế độ cũ, công tác dự trù và thi hành ngân sách quốc phòng, điều hợp quân số hưởng lương và quân số hiện diện, yểm trợ Tổng nha Nhân lực về quản trị nhân lực. Báo cáo của anh Thoả trình bày tỷ mỷ lợi ích của TT trong thống kê quân số, sử dụng ngân sách, sử dụng nhân viên; trình bày biên chế tổ chức của TT, ý chừng anh muốn thuyết phục quân đội ta xây dựng một TT theo mô hình này để quản lý tài chính quân đội. Anh Thoả cũng cho biết tình trạng thiết bị, nguyên liệu,vật tư, phương tiện làm việc và các loại hồ sơ tài liệu ở TT.
Để khôi phục lại hoạt động của máy IBM360/20, các anh đã cho gọi 5 sĩ quan và nhân viên cũ chủ chốt đến khai thác tình hình và giao nhiệm vụ cho họ thông báo lại cho toàn bộ nhân viên cũ làm việc ở TT đến gặp. Cuối cùng các anh đã sử dụng trở lại một số nhân viên như: điều hành viên điện tử, thợ sửa chữa điện và máy lạnh, một lao công vệ sinh.
Nói thêm vài nét về TT ở Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn. TT này đầu tiên gọi là TT Điện cơ Kế toán, nhưng từ năm 1968 thì đổi là TT Khai thác An bài Điện Tử. TT trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn, dưới sự giám sát hoạt động của phòng Tổng Quản trị - Bộ Tổng Tham mưu. TT có chức trách xử lý dữ liệu cho quản lý quân số, tuyển quân. Trước đây, TT này có máy IBM360/20, cuối năm 1972 thì được trang bị máy IBM360/40. TT đảm trách những công việc: thống kê quân số, thiết lập danh sách và lệnh gọi nhập ngũ, yểm trợ việc quản trị nhân viên. Ngoài ra TT còn hỗ trợ cho các TT khác như Điện toán Tiếp vận, Điện toán Hải quân, Điện toán Không quân.
Tiếp quản máy tính IBM360/50
Cũng trong chuyện tiếp quản và khai thác máy tính IBM, ông Lê Tự Thành kể lại:
Sau khi được tin tìm thấy các máy tính của quân đội ngụy và quân Mỹ, anh Nguyễn Lãm đã tức tốc cử thêm cán bộ vào vận hành và khai thác. Tôi được phân công tiếp quản máy IBM 360 model 50 (IBM360/50) của quân đội Mỹ quản lý kho hậu cần (tổng kho Long Bình) và đây là máy tính lớn nhất hồi đó ở miền Nam.
Việc đầu tiên của quá trình vận hành lại chiếc máy tính này là gọi công binh gỡ mìn. Khi đó, mìn đặt khắp nơi trên từng bộ phận của máy tính và cả trên những máy đục lỗ. Sau khi gỡ mìn, chúng tôi cùng với những nhân viên cũ của công ty IBM bắt tay vào khôi phục hoạt động. Sau khi khôi phục hệ thống điện, nhân viên IBM kiểm tra từng thiết bị và máy tính. Đồng thời, chúng tôi phải sửa lại hệ thống điều hoà lớn (kiểu điều hoà trung tâm hiện nay) vì phòng máy rất kín và ngột ngạt nếu không có hệ thống điều hoà không chịu được. Sau gần một tháng lao động, chúng tôi đã khởi động thành công máy IBM 360 model 50.
Máy tính IBM360/50 rất lớn, chiếm khoảng 600 mét vuông. Nó sử dụng một bộ vi xử lý trung tâm (CPU) to bằng hai cái tủ đựng quần áo ba buồng. Các ổ đĩa từ và băng từ dùng cho máy tính này cũng rất cồng kềnh, mỗi ổ băng từ to bằng tủ lạnh lớn hiện nay. Ngoài ra, chiếc máy này cần tới 80 máy đục lỗ để làm phương tiện viết chương trình. Tiếp đến là kho lưu trữ về băng từ cũng rất rộng, vì băng từ lúc đó quá to.
Ấn tượng ban đầu của chúng tôi là họ (quân đội Mỹ) sử dụng máy tính vào quản lý kho rất khoa học. Chiếc máy tính IBM dùng hệ điều hành OS/360, hoạt động khá giống với máy tính Minsk của Nga. Các chương trình viết cho máy tính IBM phía quân đội ngụy sử dụng ngôn ngữ Cobol. Lúc đó Nga cũng có tài liệu về ngôn ngữ này dịch sang tiếng Nga nên mọi người nắm bắt dễ dàng. Ngoài ra, nhân viên cũ của IBM còn khá đầy đủ, nhờ họ hướng dẫn sử dụng nên chỉ sau khoảng một tháng chúng tôi đã cho hoạt động lại bình thường toàn bộ máy tính, kể cả khai thác dữ liệu chương trình quản lý kho của ngụy.
Cũng phải nói là các chương trình của họ viết khoa học, tỉ mỉ từng bước rất dễ sử dụng. Nhân viên lập trình chỉ là cán bộ trung học, không phải là cán bộ đại học như ta. Vì vậy, hầu hết các đoạn lệnh viết theo cấu trúc giống nhau, nên ai đọc cũng hiểu. Lúc đầu, anh em tiếp quản nghĩ họ “dốt” thật, đáng lẽ nhiều đoạn lập trình có thể viết ngắn thì họ lại viết rất dài. Nhưng sau này mới thấy lập trình công nghiệp thì phải thế, họ viết rành mạch, có ghi chú rõ ràng nên người sử dụng hiểu rất nhanh. Hồi đó anh em kỹ thuật của ta rất khoái thủ thuật, làm thế nào giải quyết vấn đề ngắn nhất, hay nhất nhưng người khác đọc không hiểu gì cả!
Sau khi khai thác thành công, chúng tôi đã cung cấp cho Tổng cục Kỹ thuật danh mục toàn bộ hàng còn tồn trong các kho, trong đó kho lớn nhất là Tổng kho Long Bình. Sau đó, các máy tính IBM tại Sài Gòn tiếp tục phục vụ cho việc tính toán những bài toán giao thông, cầu đường, sau đó là khai thác và thăm dò dầu khí.
Đọc toàn bộ bài viết trên báo Bưu điện Việt Nam số 105 ra ngày 31/10/2008