Để tăng lợi thế cạnh tranh với xe nhập khẩu khi thời điểm 2018 thuế nhập khẩu nguyên chiếc từ ASEAN về 0% đang tới gần và bảo hộ ngành sản xuất ô tô nội địa, Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ 2 phương án giảm thuế đối với linh kiện ô tô nhập khẩu.
Tuy nhiên, đề xuất mới không giảm thuế nhập khẩu linh kiện đại trà cho tất cả các chủng loại xe mà tập trung vào các loại xe có lợi thế cạnh tranh, phù hợp với chính sách tiêu dùng và các yêu cầu về bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng. Trước mắt, tập trung vào dòng xe dưới 9 chỗ ngồi có dung tích từ 2.000cc trở xuống, tiêu hao nhiên liệu dưới 7lít/100km; Tiêu chuẩn khí thải mức từ EURO 4 và dòng xe tải nhẹ có tổng trọng lượng có tải từ 5 tấn trở xuống, tiêu chuẩn khí thải mức từ EURO 4.
Hai phương án giảm thuế được Bộ Tài chính đề xuất cụ thể là: Giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của 163 dòng thuế linh kiện ô tô nhập khẩu để lắp ráp cho 2 nhóm xe về 0%. Theo đó, giảm mức thuế suất trung bình của cả bộ linh kiện từ 14-16% xuống khoảng 7% đối với xe dưới 9 chỗ và khoảng 1% đối với xe tải dưới 5 tấn.
Một phương án nữa được tính đến là giảm thuế suất thuế nhập khẩu MFN của 19 dòng thuế linh kiện là động cơ, hộp số, cụm truyền động, bơm cao áp để lắp ráp cho 2 nhóm xe xuống 0% (do đây là một số linh kiện, phụ tùng trong giai đoạn tới Việt Nam chưa thể sản xuất) và giảm thuế suất của 42 dòng thuế thuộc nhóm 8708 (bộ phận và phụ kiện của xe ô tô) để lắp ráp cho 2 nhóm xe nêu trên xuống 10%. Theo đó, giảm mức thuế suất trung bình của cả bộ linh kiện từ 14-16% xuống 9 – 11% đối với xe dưới 9 chỗ và 7,9% đối với xe tải dưới 5 tấn.
Ưu đãi giảm thuế nhập khẩu đối với linh kiện ô tô nhập khẩu trong 5 năm này có kèm theo điều kiện về sản lượng xe SXLR (sản lượng chung cho các mẫu xe và sản lượng riêng cho một mẫu xe mà 1 doanh nghiệp tham gia chương trình cam kết phải đạt được hàng năm) và tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước của mẫu xe cam kết phải đạt được hàng năm, để lắp ráp cho 2 nhóm xe nêu trên.
Cụ thể, theo lộ trình mà Bộ Tài chính đặt ra thì sản lượng chung tối thiểu đối với ô tô chở người dưới 9 chỗ, loại có động cơ từ 2.000 cc trở xuống mà các doanh nghiệp đạt được năm 2018 phải là 34.000 xe và tăng 16% theo từng năm cho đến 2022 là 61.000 xe và tổng giai đoạn 5 năm phải đạt 234.000 chiếc được lắp ráp trong nước. Trong đó, sản lượng riêng tối thiểu 1 mẫu xe phải đạt 20.000 xe và tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước là 20% (năm 2018) và con số này tăng lên tương ứng 36.000 xe vá 40% vào năm 2022.
Cũng theo nhận định của Bộ Tài chính, với lộ trình này, khả năng sẽ có 3 doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia chương trình. Ba doanh nghiệp được Bộ Tài chính nhắc đến cụ thể là Trường Hải (Thaco), Hyundai Thành Công và Toyota Việt Nam khi đây đều là các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp có doanh số tiêu thụ khá tốt.
Nắm quyền lắp ráp và phân phối 2 thương hiệu Kia và Mazda, doanh số bán ra của Trường Hải năm 2016 đạt trên 65.00 xe(trong đó có 32.000 xe Mazda và 33.000 xe kia). Hầu hết các mẫu xe ăn khách của 2 thương hiệu này đều được lắp ráp trong nước.
Một doanh nghiệp khác là Hyundai Thành Công khi doanh nghiệp này vừa nhanh chóng mở rộng sản xuất, lắp ráp trong nước trước thời điểm 2018 cận kề. Trong giai đoạn đầu, liên doanh Hyundai Thành Công tiếp tục vận hành nhà máy hiện tại của mình tại Ninh Bình với công suất 40.000 xe/năm và cơ cấu sản phẩm xe Hyundai tại Việt Nam sẽ chuyển dịch từ tỉ trọng từ 20% xe lắp ráp CKD lên hoảng 70% trong năm 2017 và tăng lên đến 90% trong năm sau. Cụ thể, ngoài 2 mẫu xe du lịch đang được lắp ráp là Hyundai SantaFe, Hyundai Elantra, trong năm nay, Hyundai Thành Công đã đưa thêm mẫu xe ăn khách Hyundai Grand i10 và Tucson. Đây đều là 2 mẫu xe có doanh số bán khá tốt tại Việt Nam trong đó, Grand i10 có doanh số khoảng trên 20.000.
Về phía Toyota Việt Nam, điều kiện về sản lượng chung doanh nghiệp này có thể đáp ứng khi tổng doanh số các mẫu xe lắp ráp dù đã lắp ráp ở Việt Nam có thể vượt ngưỡng điều kiện yêu cầu. Tuy nhiên, năm 2016, doanh số bán ra của mẫu xe ăn khách nhất của thương hiệu này là Toyota Vios (được sản xuất, lắp ráp trong nước) lại chưa đến 18.000 chiếc. Ngoài ra, tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước mà Bộ Tài chính yêu cầu thấp nhất là 20%.
Như vậy, nếu đề xuất này được Chính phủ phê duyệt thì các thương hiệu vốn đang có hoạt động sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam như Ford, Honda, Nissan,... sẽ gặp khó khăn khi thời điểm 2018 đang cận kề.
Cụ thể, theo phân tích từ các chuyên gia được nêu ra trong khuôn khổ một diễn đàn kinh tế, những bất lợi về quy mô sản xuất và phải nhập khẩu hầu hết các linh kiện sản xuất, lắp ráp ô tô nên các doanh nghiệp sản xuất ô tô của Việt Nam phải chịu chi phí đóng gói, vận chuyển rất cao, đặc biệt thuế linh kiện. Do đó, chi phí sản xuất trong nước thường cao hơn chi phí sản xuất của xe lắp ráp tại Thái Lan và Indonesia.
Chênh lệch chi phí sản xuất có thể sẽ lên đến 20% sau năm 2018 khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN có hiệu lực và lúc này, các loại xe nhập khẩu nguyên chiếc trong khu vực sẽ được miễn thuế. Do đó, các nhà sản xuất ô tô trong nước sẽ phải đối mặt với tình huống khó khăn nếu phải tiếp tục sản xuất trong nước khi nhiều mẫu xe có sức cạnh tranh cao về chi phí sẽ được nhập khẩu từ Thái Lan và Indonesia. Đầu năm nay, một số doanh nghiệp đã chuyển sang nhập khẩu một vài dòng xe từ 2 thị trường nêu trên.