Tại các quốc gia dầu mỏ, thường không chỉ là toàn bộ nền chính trị chủ  yếu xoay quanh việc người kiểm soát van dầu là ai, mà nhận thức của người dân về phát triển cũng trở nên méo mó sai lệch.

>>"Lời nguyền" dầu mỏ

Lí do mà mối liên hệ giữa giá dầu và tiến trình tự do ngày nay cần  được nghiên cứu là vì dường như chúng ta đang chứng kiến quá trình giá dầu thô của thế giới bắt đầu đi lên mạnh mẽ. Nếu đúng như thế, mức giá cao này gần như chắc chắn sẽ có những tác động dài hạn  đến đặc điểm của nền chính trị ở các nước yếu hay độc tài. Điều đó tới lượt nó có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình thế giới sau Chiến tranh Lạnh như chúng ta đã và đang chứng kiến. Nói một cách khác, tin tức giá dầu thô hiện nay không chỉ là vấn đề lo lắng của riêng Bộ trưởng Tài chính Mỹ, mà  còn là mối quan tâm của cả ngài Ngoại trưởng nữa.

Sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9, giá dầu thế giới đã đều đặn tăng mạnh từ mức 20-40 đô la lên mức 40-60 đô la một thùng. Một phần nguyên nhân của việc tăng giá chịu tác động từ cảm giác bất an chung trên thị  trường dầu mỏ thế giới vì những vụ  bạo lực bùng phát ở Iraq, Nigeria, Indonesia và  Sudan; nhưng hơn thế nữa là kết quả của hiện tượng gọi là “quá trình làm phẳng thế giới” và sự tham gia ào ạt vào thị trường thế giới của 3 tỷ người tiêu dùng mới từ Trung Quốc, Brazil, Ấn Độ và Liên Xô cũ, khi mà tất cả đều mơ đến một tương lai có nhà ở, ô tô, tủ lạnh và lò vi sóng.

Nhu cầu năng lượng đang tăng lên này là khổng lồ và điều này đã, đang và sẽ tiếp tục gây áp lực lên giá dầu. Nếu phương Tây không có những biện pháp tiết kiệm năng lượng triệt để, cũng như nếu không tìm được nguồn thay thế cho nhiên liệu hóa thạch, thì trong tương lai gần giá dầu sẽ giữ ở mức 40-60 đô la, và có thể còn cao hơn nữa.

{keywords}

Từ góc nhìn chính trị, điều đó có nghĩa là một loạt quốc gia dầu mỏ với các thể chế yếu kém hoặc các chính quyền độc tài rất có khả năng sẽ phải đối mặt với tình trạng xói mòn tự do, cũng như sự gia tăng tham nhũng và các hành vi độc tài, phi dân chủ  của nhà cầm quyền. Lãnh đạo của các quốc gia này có thể hi vọng vào sự gia tăng đáng kể nguồn thu nhập có sẵn để tăng cường lực lượng an ninh, mua chuộc các đối thủ, mua phiếu của cử  tri hay sự ủng hộ của công chúng, cũng như chống lại các tiêu chuẩn và quy tắc quốc tế. Chỉ cần lướt qua bất kì tờ báo nào vào bất cứ ngày nào trong tuần, ta cũng có thể thấy các bằng chứng của xu hướng đó.

Lấy ví dụ một bài viết đăng vào tháng 2 năm 2005 trên tờ Wall Street Journal. Bài viết kể lại chuyện các giáo chủ ở Tehran vốn nhận được rất nhiều tiền từ việc dầu thô tăng giá đã quay lưng với các nhà đầu tư nước ngoài thay vì trải thảm đỏ mời họ vào như thế nào. Bài báo có nhắc đến việc hãng điện thoại di động của Thổ Nhĩ Kì là Turkcell đã kí hợp đồng với Tehran để thành lập công ty điện thoại di động tư nhân đầu tiên tại nước này. Vụ làm ăn quả thật rất hấp dẫn: Turkcell đồng ý trả cho Iran 300 triệu đô la để được cấp phép thành lập với vốn đầu tư 2,25 tỉ đô la vào dự án, tạo ra 20 nghìn việc làm cho người dân Iran. Nhưng các giáo chủ trong Quốc hội Iran đã tìm cách đóng băng hợp đồng, viện cớ rằng gián điệp nước ngoài sẽ lợi dụng mạng di động để theo dõi nước này.

Ali Ansari, một chuyên gia về Iran thuộc trường Đại học Saint-Andrew (Scotland) kể với tờ báo rằng các nhà phân tích Iran đã luôn kêu gọi cải cách kinh tế trong suốt cả chục năm qua. “Nhưng trên thực tế tình hình ngày càng xấu đi”, Ali nói. “Họ đã có tiền từ giá dầu mỏ tăng cao và chẳng cần làm gì để cải cách kinh tế cả”.

Hoặc theo một bài báo khác nhận định về Iran trên tờ The Economist ngày 11 tháng 2 năm 2006: “Tinh thần dân tộc dễ dàng nảy sinh hơn trên những cái dạ dày đã no căng. Ahmadinejad là một Tổng thống may mắn hiếm có, người trông chờ nhận được khoản thu ngân sách 36 tỉ đôla từ xuất khẩu dầu mỏ trong năm tới theo lịch Iran, và giúp ông ta mua được lòng trung thành của người dân. Trong dự thảo ngân sách đầu tiên đang được quốc hội xem xét, chính phủ đã hứa sẽ xây dựng 300 nghìn căn nhà mà hai phần ba trong số đó nằm ngoài các thành phố lớn, cũng như giữ nguyên mức trợ cấp năng lượng vốn đã chiếm đến 10% tổng sản phẩm quốc nội”.

Hay xem xét tình hình đang diễn ra ở  Nigeria. Nước này quy định Tổng thống chỉ được nắm quyền tối đa là hai nhiệm kì, mỗi nhiệm kì 4 năm. Tổng thống Olusegun Obasanjo nhậm chức vào năm 1999, sau giai đoạn cầm quyền của quân đội, và  sau đó tái đắc cử trong cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu vào năm 2003. Từ khi giành quyền lãnh đạo từ tay các tướng lĩnh, Obasanjo đã gây chú ý bằng việc cho tiến hành điều tra các vụ vi phạm nhân quyền của quân đội Nigeria, cho thả các tù nhân chính trị và thậm chí còn cố gắng thực sự để loại bỏ tệ nạn tham nhũng. Khi đó, giá dầu vào khoảng 25 đôla một thùng. Hiện nay, khi giá dầu ở mức 60 đô la một thùng, Obasanjo đang cố gắng thuyết phục quốc hội thay đổi hiến pháp để cho phép ông ta có thể cầm quyền thêm một nhiệm kì thứ ba nữa.

Wunmi Bewaji, lãnh đạo phe đối lập trong Hạ viện Nigeria, cho biết các nhà làm luật  đã được đề nghị khoản hối lộ trị giá 1 triệu đô la nhằm đổi lấy việc  đồng ý thông qua sửa đổi hiến pháp để kéo dài thời gian cầm quyền của Obasanjo. “Hiện nay người ta đang đề nghị 1 triệu đô la một phiếu”, VOA News đã dẫn lại câu nói của Bewaji trong một bài viết đề ngày 11 tháng 3 năm 2006. “Và chính các quan chức cấp cao tại Thượng và Hạ viện đã phối hợp với nhau làm việc đó”.

Clement Nwankwo, một trong những người dẫn  đầu chiến dịch đấu tranh vì nhân quyền ở  Nigeria, trong lần đến thăm Washington vào tháng 3 vừa qua khi giá dầu bắt đầu leo thang đã kể cho tôi nghe rằng “các quyền tự do công dân đã suy giảm nghiêm trọng, việc bắt người diễn ra một cách rất tùy tiện, nhiều nhân vật đối lập bị giết, và các thể chế dân chủ bị phá  hỏng”. Ông còn nói thêm, dầu mỏ chiếm đến 90% xuất khẩu của Nigeria, và điều đó phần nào giải thích sự gia tăng một cách đột biến số  vụ bắt cóc công nhân nước ngoài tại thung lũng nhiều mỏ dầu Niger. Nhiều người Nigeria tin rằng những người nước ngoài hẳn là đang ăn cắp “vàng đen”  của họ, vì chỉ có một phần rất ít trong số thu nhập khổng lồ đó đến được với tay người dân.

Tại các quốc gia dầu mỏ, thường không chỉ là toàn bộ nền chính trị chủ  yếu xoay quanh việc người kiểm soát van dầu là ai, mà nhận thức của người dân về phát triển cũng trở nên méo mó sai lệch. Nếu người dân nghèo  đói mà quan chức lại giàu có thì đó không phải là do chính phủ đã không đẩy mạnh giáo dục, cải cách, nền pháp trị và khả năng kinh doanh. Đấy là bởi vì một số người nào đó đang được nhận tiền từ dầu mỏ, còn họ thì không.

Người dân bắt đầu nghĩ rằng muốn trở nên giàu có thì phải ngăn chặn những người ăn cắp dầu của đất nước, chứ  không phải là xây dựng một xã hội biết đầu tư cho giáo dục, cải cách và kinh doanh. “Nếu Nigeria không có dầu mỏ thì toàn bộ phương trình chính trị sẽ khác hẳn”, Nwankwo nói. “Thu nhập sẽ không đến từ dầu mỏ, do đó việc  đa dạng hóa nền kinh tế sẽ là một vấn  đề cấp bách và doanh nghiệp tư nhân sẽ đóng vai trò quan trọng hơn, đồng thời người dân cũng sẽ phải phát triển khả năng sáng tạo của mình”.

Quả thật, mối liên hệ giữa giá  dầu và tiến trình tự do chặt chẽ đến nỗi tại một số quốc gia ngay cả các nhà lãnh đạo biết nhìn xa trông rộng cũng có thể đi lạc ra khỏi con đường cải cách kinh tế và chính trị  một khi giá dầu tăng đột ngột.

Hãy xem xét trường hợp của Bahrain, nước này biết rằng dầu mỏ của họ đang cạn kiệt và trở thành một ví dụ điển hình về việc giảm thu nhập từ  dầu mỏ có thể khuyến khích công cuộc cải cách như thế nào. Nhưng nước này cũng không thể  đứng vững trước sức quyến rũ của việc dầu mỏ  tăng giá. “Mọi việc hiện nay đang rất tốt vì giá dầu tăng cao. Điều này có thể khiến các quan chức cảm thấy tự mãn”, Jasim Husain Ali, trưởng bộ phận nghiên cứu kinh tế của trường Đại học Bahrain đã nói như thế trong bài phỏng vấn với tờ Gulf Daily News số ra gần đây. “Đó là một xu hướng rất nguy hiểm vì thu nhập từ dầu mỏ là không bền vững. Sự đa dạng hóa nền kinh tế của Bahrain có thể là đã đủ theo tiêu chuẩn của vùng Vịnh, nhưng với tiêu chuẩn quốc tế thì chưa”. Không lấy làm ngạc nhiên khi một nhà báo trẻ người Iran từng tâm sự: “Nếu chúng tôi không có dầu mỏ thì có thể chúng tôi đã giống như Nhật Bản rồi”.

Kì cuối: Địa chất quan trọng hơn tư tưởng

Biên dịch: Trần Nguyễn Hồng Ngọc; Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Nguồn: Thomas L. Friedman (2006). “The First Law of Petropolitics”, Foreign Policy, No.154 (May/June), pp 28-36.

Tài liệu được đăng lại từ website nghiencuuquocte.net

>> Mời độc giả ghé thăm và đóng góp ý kiến cho trang Fanpage của Tuần Việt Nam