Một bạn đọc viết:

“(Lẽ ra) nên viết bài ủng hộ những chính sách đúng đắn và công bằng (thuế điện tử thay thế thuế khoán) như thế này. Dân không chỉ có 2 triệu hộ kinh doanh cá thể, mà còn hàng chục triệu người lao động khác đang làm công ăn lương và phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế thu nhập với nhà nước. Tại sao hàng chục triệu người đi làm, mọi khoản thu nhập đều hiện lên hệ thống VNeID, phải nộp thuế đầy đủ, trong khi một bộ phận kinh doanh hàng giả, hàng lậu, kê khai thu nhập không đầy đủ lại được bênh vực?”

Bạn đọc viết, việc kết nối máy tính tiền với cơ quan thuế, thế giới họ đã làm mấy chục năm nay rồi. Đây là công cụ cơ bản để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong thu thuế. Về hậu kiểm – thì hậu kiểm muốn hiệu quả phải có dữ liệu, có thông tin để kiểm chứng và so sánh. Làm theo cách cũ, hàng hóa mua bán không hóa đơn, không nguồn gốc, giao dịch xong là xóa mọi dấu tích, thì thử hỏi hậu kiểm kiểu gì?...

“Việc kết nối điện tử không phải để 'soi từng giao dịch', mà là để tạo cơ sở hậu kiểm hiệu quả, tiết kiệm chi phí và công sức. Đó mới là cách làm hiện đại, văn minh và công bằng,” anh nhận xét.

Ý kiến của anh có thể đại diện cho nhiều ý kiến khác đồng tình với chính sách thuế hóa đơn điện tử mới.

Tôi đồng ý và cũng không đồng ý với quan điểm này.

Những điểm đúng đắn cần phải cổ vũ

Việc áp dụng thuế hóa đơn điện tử đối với hộ kinh doanh có doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm là điều không phải bàn cãi. Vấn đề là số liệu về số hộ này của Cục Thuế rất mâu thuẫn nhau.

Cục Thuế cho biết, từ 1/6, khoảng 37.000 hộ có doanh thu trên 1 tỷ đồng mỗi năm thuộc một số ngành nghề (ăn uống, khách sạn, bán lẻ, vận tải hành khách, thẩm mỹ, vui chơi giải trí...) phải dùng hóa đơn điện tử qua máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế.

Tuy nhiên, năm 2017, Tổng cục Thuế (tên gọi trước đây) cho biết có 102.095 hộ kinh doanh có doanh thu thường xuyên hơn 1 tỷ đồng/năm. Năm 2018, Tổng cục Thuế cho biết thêm, nhiều hộ kinh doanh thậm chí có doanh thu vài trăm tỷ đồng/năm. Hiện nay, khoảng 1,7 triệu hộ kinh doanh đăng ký thuế hiện đang có doanh thu trên 100 triệu đồng/năm và đang thực hiện nghĩa vụ thuế.

Số liệu như trên rất mâu thuẫn, số hộ có doanh thu 1 tỷ đồng trở lên cách đây 8 năm cao gấp 3 lần so với số hiện nay, là điều khó có thể tin được.

Khi thiết kế chính sách mà không đưa ra các KPI hay các báo cáo định lượng thì chính sách đó không thể sát với thực tế cuộc sống.

Dù sao thì việc áp dụng thuế với các hộ này là hoàn toàn đúng đắn.

Nhiều hộ trong số này lại hoạt động trong các lĩnh vực có yêu cầu kỹ thuật và điều kiện khắt khe như kinh doanh hóa chất, thiết bị y tế, thiết bị xây dựng, khai khoáng..., nhưng lại không chịu sự điều chỉnh của hệ thống quy chuẩn mà doanh nghiệp chính thức buộc phải tuân thủ. Họ cũng được hưởng lợi từ cơ chế thuế khoán – nộp thuế một lần theo “thỏa thuận” thay vì phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ kế toán, kiểm toán, báo cáo và bảo hiểm xã hội.

Việc các hộ kinh doanh lớn được áp dụng thuế khoán không chỉ có thể gây thất thu ngân sách, mà còn tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi các doanh nghiệp chính thức phải chi trả đầy đủ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội cho người lao động, tuân thủ kiểm định, an toàn kỹ thuật, vệ sinh môi trường, thì các hộ kinh doanh quy mô lớn lại vận hành dưới cơ chế đơn giản hóa, thậm chí “ngoài luật”.

Điều này dẫn đến một nghịch lý: càng lớn, càng có khả năng né tránh nghĩa vụ; càng nhỏ, càng dễ bị siết chặt quản lý.

Cách vận hành này còn kìm hãm chính các hộ kinh doanh lớn khỏi con đường phát triển bền vững. Thiếu minh bạch và tránh tuân thủ nghĩa vụ pháp lý đồng nghĩa với việc các hộ này không thể tiếp cận tín dụng ngân hàng, không thể kêu gọi vốn đầu tư, không thể mở rộng quy mô hoặc tham gia chuỗi cung ứng chính thức trong nước và quốc tế.

Vì vậy, việc áp dụng hóa đơn điện tử là một trong các cách thức để các hộ chuyển đổi thành doanh nghiệp, để chịu trách nhiệm đầy đủ như bất kỳ pháp nhân nào khác.

w cho tphcm nguyen hue 22 103806.jpg
Các hộ kinh doanh buôn bán tại chợ An Đông - thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Nguyễn Huế

Những điểm bất cập

Xin kể thêm một câu chuyện từ một bạn đọc khác. “Trong khu phố tôi ở có một cụ bà năm nay cũng ngoài 80 tuổi, thuộc diện “cận nghèo”, sống trong “căn nhà” chỉ vỏn vẹn vài mét vuông.

Cứ mỗi sáng trong hai chục năm nay, cụ dậy sớm nấu một nồi cháo sườn, bày ra trước ngõ với vài chiếc ghế đẩu mời khách qua đường ghé ăn. Nồi cháo mang lại cho cụ một khoản thu nhập tàm tạm để sống qua ngày. Đến dịp cuối năm hay những lúc khó khăn, phường lại gửi vài yến gạo gọi là “cứu đói”, nhưng thực ra, người cứu đói cụ hằng ngày chính là cụ”.

“Cuộc sống của cụ tạm ổn, cụ vẫn khỏe mạnh và luôn vui vẻ với người xung quanh. Một hình ảnh nhỏ nhưng ấm lòng”.

Bạn đọc này đặt câu hỏi: “Khi chính sách hóa đơn điện tử được áp dụng cứng nhắc cho tất cả hộ kinh doanh – kể cả những người như cụ thì điều gì sẽ xảy ra? Cụ có thể sẽ phải nghỉ bán vì không đủ điều kiện thực hiện, hoặc buộc phải vi phạm quy định để tồn tại. Khi ấy, vài cân gạo từ phường hay khoản trợ giúp nhỏ hằng tháng sẽ không thể giúp cụ duy trì cuộc sống độc lập nữa. Cụ sẽ rơi trở lại vào vòng xoáy nghèo đói – lần này là nghèo thực sự, nghèo đến bần cùng”.

Những câu chuyện như bà cụ trên diễn ra ở mọi ngóc ngách, mọi địa phương, từ đô thị phồn hoa đến các ngôi làng hẻo lánh trên đất nước.

Chính sách, vì thế, cần được thiết kế để phù hợp với đại đa số vì một chính sách không thể và không nên áp dụng cho tất cả như nhau.

Tâm lưới an sinh của đa số dân nghèo

Theo Tổng cục Thống kê, có 5,2 triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tạo ra hơn 30% GDP. Trong số đó có khoảng 1,7 triệu hộ kinh doanh đã đăng ký, khoảng 3,5 triệu hộ khác chưa đăng ký kinh doanh. Khu vực này đang tạo việc làm cho 8,7 triệu lao động, tương đương gần 1/5 dân số trong độ tuổi lao động.

Dù đóng góp tới 30% GDP, khu vực hộ kinh doanh cá thể chỉ mang lại khoảng 1,6% thu ngân sách.

Nếu chính sách thuế giám sát đến từng giao dịch qua hóa đơn điện tử, chỉ chăm chăm vào “thu đúng, thu đủ”, đại đa số hộ kinh doanh thuộc khu vực này sẽ có nguy cơ bị đẩy ra ngoài lề?

Nếu nhìn nhận họ như một bộ phận kinh tế dân sinh, hấp thụ hàng triệu lao động không thể hoặc chưa thể tiếp cận khu vực doanh nghiệp chính thức, thì điều cần là một chính sách thích nghi và nhân văn hơn.

Họ là mạng lưới an sinh phi chính thức nhưng hiệu quả, góp phần giảm nghèo, ổn định xã hội, giảm tải cho hệ thống bảo trợ nhà nước.

Hãy thử hình dung: nếu khu vực này bị siết chặt tới mức không thể tồn tại, hàng triệu người sẽ không chỉ mất doanh thu, mà mất hoàn toàn sinh kế. Liệu hệ thống an sinh xã hội hiện nay có đủ khả năng và độ phủ để bảo vệ họ?

Căn bếp không thể là văn phòng công ty

Tên gọi “hộ kinh doanh” không phải là ngẫu nhiên. Nó phản ánh đúng bản chất: đó là một đơn vị kinh doanh gắn với hộ gia đình, nơi không gian sống và không gian sản xuất – kinh doanh thường chồng lấn, trộn lẫn, thậm chí là một.

Quán bún nằm ngay trong sân nhà. Tiệm sửa xe chiếm một góc hiên. Căn bếp buổi sáng nấu cơm cho gia đình, buổi trưa trở thành nơi bán hàng ăn.

Khi Nhà nước muốn họ “chuẩn hóa” thì xuất hiện nghịch lý: ngôi nhà vốn là nơi sinh hoạt của nhiều thế hệ bỗng chốc phải đáp ứng tiêu chuẩn của một doanh nghiệp.

Làm sao mà một căn nhà cấp 4 trong khu phố cổ, một căn nhà ba tầng trong hẻm sâu, hay một căn nhà mái tôn ở vùng ven có thể cùng lúc là nơi ở và đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn đó? Muốn đạt chuẩn, chỉ có cách là đập đi, xây lại – nghĩa là đầu tư hàng trăm, hàng tỷ đồng và... ra thuê nhà ở nơi khác để sinh sống. Đó là điều bất khả thi với đa số hộ kinh doanh nhỏ.

Nếu đi khảo sát phố phường, nơi có hàng trăm nghìn hộ đang buôn bán nhỏ, bạn sẽ thấy 99% không đủ điều kiện để được gọi là một “công ty đúng nghĩa”, nếu chiếu theo tất cả các quy định hiện hành.

Họ chỉ có thể tồn tại dưới dạng... nửa vời, miễn cưỡng hoặc bất hợp pháp.

Nhà nước đang khuyến khích nhân dân làm giàu, nhưng không phải ai cũng có thể làm giàu, mà chỉ đơn giản là bươn chải mưu sinh. Những cái chợ im ỉm, nhiều tuyến phố vắng hoe, nhiều bài phản ánh, phóng sự trên báo chí trong những ngày này, nếu bạn quan tâm một chút sẽ thấy và thông cảm cái lý của những chủ hộ kinh doanh.