Trong bài tham luận gửi đến đại biểu tại Hội thảo Toàn cảnh CNTT-TT Việt Nam, chủ đề Giao thông thông minh, diễn ra hôm 24/9/2015, ông Hà Hoàng Huy – Phó giám đốc kinh tế đối ngoại Tổng công ty công nghiệp Sài Gòn (CNS) cho biết, hệ thống xe buýt TP.HCM hiện đang dùng vé giấy, gây bất tiện trong sử dụng, xảy ra tiêu cực trong công tác quản lý. Ngoài ra, các trạm thu phí vận hành độc lập, không đồng nhất và nhiều bất tiện: phương thức đóng phí trả trước thủ công (nộp tiền tại trạm), không tiện lợi trong sử dụng vì qua mỗi trạm (thuộc hệ thống) phải thay đổi thẻ; chỉ giải quyết bài toán thu phí đơn thuần, không sẵn sàng kết nối với các thiết bị khác để giải quyết bài toán giao thông đặc thù của thành phố.
![]() |
Giải quyết được tình trạng vé giấy ở các phương tiện công cộng và các phương thức đóng phí ở trạm thu sẽ góp phần làm giảm ùn tắc giao thông đô thị. Tuy nhiên, theo ông Chu Tiến Dũng, Chủ tịch Hội tin học TP.HCM, phát biểu trong hội thảo, hiện nay công nghệ để thực hiện việc thu phí, cân đo tải trọng, xử lý hệ thống giao thông đã rất sẵn sàng nhưng quan trọng nhất hiện nay là chọn lựa một chuẩn để đảm bảo kết nối đồng bộ và thông suốt. Bên cạnh đó, khi làm vé tàu điện tử, vé xe buýt điện tử thì cũng gặp vấn đề phải thống nhất chuẩn.
Nghĩa là, mặc dù các giải pháp công nghệ cho vé điện tử, thu phí ở trạm thu và ứng dụng cho các giải pháp khác đã có, nhưng có vẻ mỗi công nghệ đưa ra khác nhau nên thành phố đang cần chọn lựa một chuẩn thống nhất, nhằm đảm bảo hệ thống được thông suốt, dễ dàng tương thích qua lại, dễ quản lý và triển khai.
Ông Dũng giải thích, hiện nay TP.HCM có 4 trạm thu phí ở các cửa ngõ quan trọng, nếu vào giờ cao điểm các phương tiện phải dừng ở trạm thu để đóng phí sẽ gây ùn tắc giao thông nhưng nếu thực hiện được tốt việc thu phí không dừng thì bài toán ùn tắc sẽ giảm một phần. Ví dụ Thành phố có trạm thu phí trước hầm Thủ Thiêm nhưng hiện không thu được vì nếu thu phí hầm thì cả hầm sẽ ùn tắc ngay lập tức, từ đó nảy sinh vấn đề an ninh an toàn nên thu phí không được; nhưng nếu là thu phí không dừng thì sẽ giải quyết được vấn đề.
Ngoài vấn đề thu phí và vé điện tử, ông Dũng cũng đề cập đến hệ thống giám sát giao thông. Nếu hiện nay TP.HCM có đầy đủ camera giám sát đặt ở tất cả các ngã tư, lắp đặt và giám sát hiệu quả đưa thông tin về trung tâm thì chắc chắn xử lý được cả các vấn đề quy hoạch giao thông, vấn đề an ninh an toàn, cho đến vấn đề quản lý tốc độ, chấp hành luật lệ giao thông. Theo ông, việc này sẽ gây tốn kém, nhưng các cơ quan quản lý đã nghĩ đến, và một giải pháp được nghĩ đến chính là dùng tiền phạt vi phạm giao thông để đầu tư.
Đồng tình quan điểm trên, ông Hà Hoàng Huy cho rằng mật độ camera giám sát ở TP.HCM còn thấp. Ông Huy đưa số liệu cho biết hệ thống camera giám sát giao thông của TP.HCM hiện đang có khoảng 383 bộ được gắn dọc các trục đường chính của thành phố. Các camera này hoạt động độc lập và phục vụ riêng cho nhu cầu của đơn vị quản lý (VOV giao thông, Trung tâm quản lý đường hầm SSG và các Khu quản lý giao thông đô thị). Mật độ camera chưa phủ rộng trên tất cả các chốt giao thông và các tuyến đường trọng điểm. Các camera này cũng chưa được tích hợp các ứng dụng và chức năng thông minh.