Đang cùng anh em hoàn thành hạng mục xây nhà văn hóa trên đảo Nam Yết, Vũ Ngọc Sơn (SN 1983) nhận được một tin nhắn đặc biệt từ lãnh đạo Công ty xây dựng công trình Tân Cảng, nơi anh đang làm việc. Đó là phần thưởng về quê ăn Tết Quý Tỵ và thăm con gái mới lọt lòng. Từ đảo xa, anh theo tàu về đất liền rồi ra bắc về làng Bỉnh Di (Giao Thịnh, Giao Thủy, Nam Định) có tổ ấm đang ngóng anh từng ngày.
Làng Bỉnh Di nằm cách biển chỉ vài kilômét. Dân làng ở đây vừa giỏi tay cấy còn khéo nghề mộc, nghề nề, nghề mạ... Năm 1989, Thiếu tướng Hoàng Kiền, Giám đốc Ban quản lý dự án đường tuần tra biên giới (Bộ Quốc phòng), một người con của làng, khi ấy là Trung đoàn trưởng, Trung đoàn công binh 83 được cấp trên giao nhiệm vụ xây công trình nhà ở trên đảo Nam Yết. Nhận nhiệm vụ, ông không khỏi băn khoăn, anh em chiến sĩ tràn đầy sức trẻ nhưng tay nghề chưa cao, khó có thể xây nhà cao tầng vừa bền, vừa đẹp theo yêu cầu. Ông đã nghĩ tới những người thợ tài hoa quê mình...
Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, có bảy người nông dân Bỉnh Di đến Trường Sa. Hành trình "ba ngày ba đêm trên ô-tô từ Nam Định vào Cam Ranh, rồi lại thêm ba ngày ba đêm trên tàu lênh đênh giữa biển mới ra tới đảo", ai ở Bỉnh Di cũng đều thuộc làu. "Đưa dân làng ra xây đảo, đã có người bảo tôi là "khùng". Nhưng sinh ra, lớn lên từ làng, tôi hiểu rõ họ là những người nông dân yêu nước, chăm chỉ, nhiệt tình. Nếu biết đặt niềm tin, động viên, tạo điều kiện cho họ đi xây dựng công trình trên đảo, chắc chắn sẽ thành công!" - Tướng Hoàng Kiền tâm sự.
Mấy chục năm qua, đã có hàng trăm người làng Bỉnh Di tiếp bước đi xây đảo, trong đó có những lứa trẻ như Sơn. Họ có mặt khắp các địa danh: Trường Sa Lớn, Nam Yết, Phan Vinh đến Sinh Tồn, Đá Lớn, Đá Đông... Người ít thì đi dăm ba tháng, người nhiều đi mấy năm trời, về quê một thời gian rồi lại đi tiếp. "Nhìn lại ngần ấy năm, người dân quê tôi ra đảo xây dựng rồi lại về làng, không mất mát, không thương vong. Mỗi hòn đá, mỗi mẩu san hô, mỗi công trình vững chãi đều thấm đẫm giọt mồ hôi của họ!" - vị tướng nói trong xúc động và tự hào.
![]() |
Những kỷ vật của người làng Bỉnh Di đi xây đảo |
Quần đảo Trường Sa vốn có biệt danh là "quần đảo bão tố". Hằng năm có khoảng 15 - 20 cơn lốc, bão đi qua hoặc hình thành tại vùng biển này. Chính vì thế, theo Tướng Hoàng Kiền, để cắm được lá cờ đỏ sao vàng trên mỗi nóc nhà mới xây dựng trên đảo đều là những kỳ tích. Ông Đoàn Văn Tự, lão thợ nề làng Bỉnh Di ra đảo lần đầu, nhớ lại: "Việc vận chuyển đá, sắt thép, vật liệu xây dựng Trường Sa vào ngày ấy vô cùng gian khổ. Tất cả đều dùng đến sức người. Lúc thủy triều lên chỉ có cách duy nhất là ôm đá trong nước, vật lộn với sóng lừng. Có người vác đá lội gần vào đảo thì gặp sóng lừng, cả đá lẫn người chìm nghỉm dưới biển. Hàng nghìn viên đá lớn nhỏ, hàng chục tấn sắt, hàng trăm tấn xi-măng đã được vận chuyển vào đảo an toàn bằng cách đó".
Ông Lê Văn Biền, thợ nề làng Bỉnh Di nhớ lại kỷ niệm về một đêm, khi ông và mọi người vừa chợp mắt sau một ngày vật lộn với nắng gió, bỗng dưng sấm chớp vang trời, dông gió ầm ầm nổi lên, những con sóng lừng đang vỗ ầm ầm vào ngôi nhà mới xây chưa có cửa. "Để không bị sóng lôi ra biển, những người thợ làng chúng tôi đã chống sóng bằng cách bám vào vai nhau thành một vòng tròn. Làm như vậy vừa giữ vững ý chí, vừa bảo đảm an toàn, sóng lùa vào cũng không thể hất được "gọng kìm" tay của con người. Những con sóng cao như mái nhà dâng lên rồi lại "ném vật" mọi người xuống nền nhà mới xây. Ngã rồi lại đứng thẳng dậy!" - ông Biền kể lại.
Giữa sống chết cận kề, Tướng Hoàng Kiền luôn nghĩ đến những người thợ quê mình xung phong đi xây đảo vốn là con, em liệt sĩ. Nước mắt ông chảy trong lòng. "Một bên là tình làng, nghĩa xóm một bên là trách nhiệm với Tổ quốc" - vị tướng không giấu khỏi xúc động. Ông thăm hỏi, động viên và còn nhắc khéo đưa thợ làng về đất liền để tránh hiểm nguy. Nhưng khi gặp ông, họ khẳng khái: "Nếu phải hy sinh để xây nhà, giữ nhà trên đảo thì cũng sẵn sàng!". Sau mỗi "cơn bão", họ lại bắt tay xây dựng những công trình mới.
Tiếp sức cho anh em ra xây đảo, người làng Bỉnh Di trên đất liền trở thành một hậu phương lớn. Thương những người lính, những người con xa quê thèm đĩa rau muống luộc, bát canh cải nấu ngao như ở quê nhà, hằng năm, hậu phương Bỉnh Di mua su hào, củ cải, cà-rốt, các loại rau xanh... phơi khô ngót năm tấn rồi thái nhỏ gửi ra đảo. Họ cũng có sáng kiến, trộn đất màu với phân trâu phơi khô để làm ra một loại đất đặc biệt gửi ra Trường Sa. Ngày ấy, mỗi năm, chỉ một chuyến tàu ra đảo. Trên mỗi con tàu là rau khô, là đất, là hạt giống rau... và còn nặng trĩu tình cảm từ những lá thư tay của cả làng Bỉnh Di gửi ra đảo. Có đất, anh em thợ mộc trên đảo tận dụng cốt-pha cũ đóng thành máng treo khắp nơi để trồng rau. Mầu xanh rau trái trên đảo cũng ươm mầm từ đấy.
Mấy ngày nay, ngôi nhà của thợ nề trẻ Vũ Ngọc Sơn ở làng Bỉnh Di rộn ràng những câu chuyện của mọi lứa thợ làng đi xây đảo. Người thợ mộc tài hoa Đỗ Văn Phông (SN 1968), hàng xóm của Sơn sang chơi, khoe: "Mấy hôm trước, xem phim chiếu trên truyền hình thấy công trình nhà văn hóa trên đảo Trường Sa Lớn vẫn đẹp, bàn ghế, tủ, giường nằm vẫn như ngày nào, thấy vui quá. Khi quay gần, tôi thấy cả chiếc đinh tre mình đóng ở góc bàn!". Niềm vui ấy như nhân đôi vì Phông và những người thợ mộc giỏi làng Bỉnh Di đã có sáng kiến dùng những chiếc đinh bằng tre để đóng đồ gia dụng. Dùng đinh tre sẽ không lo bị nước muối mặn bào mòn, đồ đạc sẽ vững bền trước thiên nhiên khắc nghiệt. Sáng kiến ấy nhanh chóng được triển khai. Những gốc tre đực cứng như thép ở làng Bỉnh Di cũng như nhiều vùng quê khác được thu gom, chuyển về đội thợ mộc trong bờ chế tác thành các loại đinh tre đủ các kích cỡ, chuyển ra đảo.
Ra Tết, lại đến mùa xây đảo. Người làng Bỉnh Di rục rịch lên đường. Suốt ngày đêm, trong những bộ đồ công nhân phai mầu nước biển, họ vẫn âm thầm góp công xây dựng đảo nổi, đảo chìm.
"... Mảnh đất quê ta giữa đại dương mang tình thương quê nhà...
... Đây Trường Sa, kia Hoàng Sa".
Theo An Như/ Thời nay số Xuân Quý Tỵ