Tiến ra biển, làm chủ biển, khai thác, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên biển để làm giàu từ biển là xu hướng tất yếu của nhân loại trong thế kỷ 21 - Thế kỷ của đại dương. Liên Hợp Quốc, các tổ chức quốc tế, các nước có biển và nhiều nước không có biển đều quan tâm xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật liên quan nhằm hiện thực mục tiêu chiến lược đó.

W-daukhi.png
Ảnh minh hoạ

Vấn đề lớn là ở chỗ làm sao để phát triển bền vững kinh tế biển, không làm ảnh hưởng tiêu cực tới hệ sinh thái, đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường biển; làm thế nào để huy động sự chung tay vào cuộc tích cực của Nhà nước, doanh nghiệp và đặc biệt là của cộng động nhân dân ven biển, các bên liên quan trong công tác bảo tồn biển nhằm phát triển bền vững kinh tế biển.

PGS, TS Nguyễn Chu Hồi, trong một cuộc trò chuyện với báo chí nhấn mạnh vai trò của bản “Hiến pháp của đại dương” tạo nền tảng pháp lý cho kinh tế biển phát triển như sau:

UNCLOS tạo cơ sở để chúng ta vững tin phát triển lĩnh vực dầu khí như một ngành kinh tế tiên phong, và đến nay vẫn là một ngành then chốt trong sáu lĩnh vực kinh tế biển cơ bản của đất nước. Có những thời điểm dầu khí là ngành kinh tế đóng góp lớn nhất vào GDP.

Tương tự với đánh bắt hải sản. Còn nhiều vấn đề với ngành này, nhưng chúng ta cũng đã phát triển được nghề cá thương mại, đánh bắt với quy mô lớn, bài bản, song song với nghề cá truyền thống vốn đã tồn tại lâu nay. Một số lĩnh vực khác phát triển sau nhưng cũng rất hứa hẹn như hàng hải; du lịch biển; tìm kiếm cứu hộ cứu nạn, năng lượng tái tạo… Tóm lại, UNCLOS trao cho ta quyền pháp lý đi kèm với quyền được khai thác tài nguyên để phát triển kinh tế biển.

Trên cơ sở UNCLOS, một dấu mốc không thể không nhắc đến là Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Có thể nói đây là lần đầu Trung ương ban hành một chiến lược riêng, thể hiện ý chí biển cả của dân tộc, hoà nhập với xu hướng thế giới nhìn nhận thế kỷ 21 là “thế kỷ của đại dương”.

Tiếp đó, Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ban hành ngày 22/10/2018 đã định hướng tầm nhìn chiến lược biển, lấy trục phát triển bền vững là chính.

Cốt lõi của phát triển bền vững kinh tế biển chính là sự phát triển kinh tế - xã hội mà không làm tổn hại, gây suy thoái hệ sinh thái, môi trường biển. Nền tảng cho kinh tế biển là các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống sinh thái của nó hoạt động như vốn biển tự nhiên của kinh tế biển. Các hệ sinh thái và quá trình của hệ sinh thái bao gồm sự tương tác giữa môi trường sống và không sống như một đơn vị chức năng (hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn,...) ngày càng được các nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm và xem như nguồn vốn biển tự nhiên quan trọng cho phát triển kinh tế biển.

Các hệ sinh thái biển và ven biển không chỉ cô lập và lưu trữ một lượng lớn CO2 mà còn bảo vệ các bờ biển và cộng đồng khỏi các tác động của biến đổi khí hậu. Chúng cung cấp thực phẩm, cơ hội kinh tế, dược phẩm và giải trí, môi trường sống và một loạt các chức năng của hệ sinh thái để hỗ trợ cuộc sống của con người. Một cách tiếp cận tổng hợp thông minh với khí hậu và tập trung vào các giải pháp thuận thiên, mở rộng và quản lý thật tốt các khu bảo tồn biển, cùng với phát triển cơ sở hạ tầng ven biển hợp lý sẽ là những yếu tố quan trọng để bảo vệ các cộng đồng ven biển và sinh cảnh biển. Điều này có thể hỗ trợ tăng sản lượng thủy sản, cho phép phát triển công nghệ dược phẩm, tăng cường giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học và các giá trị văn hóa biển tại địa phương.

Văn Giáp và nhóm PV, BTV